Thủ khoa Đồng Lâm Pham Văn Chất    Xuân Viên Cư Sĩ Nguyễn Hăng 

Nguyễn Diễn    Nguyễn Văn Xung    Nguyễn Văn Hàm   Nguyễn Văn Hộng 

Nguyễn Tư Duy 

 

 

Ông Cố : THỦ KHOA ĐỒNG LÂM  PHẠM VĂN CHẤT

Hiệu là Đồng Lâm, quê làng Thi Phổ,  Mộ  Đức, Thủ  khoa Hương thi năm 1884, cực kỳ thanh liêm, trí sĩ. Năm 1931 được sắc phong là Linh Bảo Đoan Túc Tôn Thần, bình sinh rất nổi tiếng về câu đối. Bài tự vịnh tiêu biểu sau đây, theo thể Ca trù.

 

Đường thế lộ đi lâu đă mỏi (1)

Hăy trở về coi cơi ra sao

Cúc tùng nay đă thế nào?

Cỏ cây u rủ, liễu đào xác xơ?

Tấm lòng hỡi! Dại khờ chi bấy

Để cái thân theo khuấy mà chơi

Gẫm cho trong cái sự đời

Nhỏ rồi lớn, lới rồi già, già ơi! Trối kệ.

Con tạo hóa cầm cân coi cũng dị

Cây quế chòe(2) sao khéo gặp mưa dông.

Chén yên hà(3) giờ những ngóng trông

 

 
 

Bài Tống Trần Cạnh Thượng Kinh

Xuân phong đắc ư mă đề kinh

Huề trượng lâm kỳ tống thượng tình

Vật thuyết Hầu môn thâm tợ hải

Tri quân đáo xứ hữu phùng nghinh

Ngoại tôn Ngũ Hà Miên tạm dịch:

Gió xuân ruổi ngựa đến kinh thành

Chống gậy đưa nhau biết mấy tình

Chớ bảo cữa Hầu sâu tợ biển

Biết chàng tới đó được phùng  nghinh

 
     
ÔNG NỘI : XUÂN VIÊN CƯ SĨ ( 1892 - 1952 )

Tên thật là Nguyễn Văn Hăng, người Thi Phổ, con rể quan Thủ Khoa Phạm Văn Chất, thơ văn phóng khoáng, có bài Vịnh Kiều bằng chữ  Hán , được rất nhiều người thuộc, cho là nhập Đường , biểu lộ tâm hồn lăng mạn, đầy nhân ái của tác giả

 
 

Thanh minh giai tiết ngộ giai nhân

Du ước nại hà? Vị ái thân.

Tam bách thanh ngân hoan cứu phụ

Sổ hàng châu lụy khốc ly quân

Liên thiên nguyệt lăng, cưu minh dạ

Tề địa hoa khai, điệp luyến thần

                            ( nghĩa là buổi sáng )

Hồi cố Tiền Đường ba tiệm viễn

Linh nhân nhất khúc, nhất thương thần .

Tác giả diễn nôm :

Thanh minh cỏ mịt chân trời

Giai nhân đây đă gặp người tình chung

Thiếp nay chẳng vẹn chữ Tùng

Chỉ vì một nỗi: Linh, Thung cơi già .

Con nguyện trả đặng ơn cha

Mấy trăm nén bạc, mừng ba bảy phần.

Nửa thương cưu lạc khóc thầm

Trời Liêu  trăng rạng mấy tầm đêm thanh.

Nửa thương hoa vội lìa nhành

Bướm già sớm đă quanh vành màu ôi.

Sực nhớ tới mấy hồi sóng dạt

Sông Tiền Đường chuyện đă xa rồi

Nhắc chi những chuyện qua rồi

Khiến  người nay cũng khôn nguôi tấc lóng.

 

 
     
BÁC TÔI : NGUYỄN DIỄN ( 1921 – 1995 )

Cao học Tiến sĩ Văn chương Pháp, giáo sư  trưởng Lê Khiết và dạy nhiều trường ở miền Trung, bút hiệu Nhan Thùy Diên. Tác phẩm: Tập thơ “ Đường Về Làng Thi”, xuất bản năn 1971 . Giỗ ngày 8 tháng 10 âm lịch

 
  THƯ VỀ XỨ QUẢNG    

 

                                  Tặng Trần Hoàng & Vũ Quang Bình

Tết này ắt hẳn không về được

Tôi gửi lời thăm hết mấy anh

Dù biết ra gì thân chiếc lá

Một khi gió loại thổi xa cành.

Bộc bạch lời quê dăm tiếng Quảng

Gói tròn thương nhớ giữa đêm thanh.

Đêm thanh không ngủ, biên thư  hỏi

Cho biết sơ qua chuyện tỉnh mình.

Cuộc chiến bấy lâu mờ khói lửa

Dân làng chạy loạn chậm hay nhanh?

Mộ Đức quê tôi xơ xác nhỉ

Ruộng đồng Thi Phổ lúa thôi xanh?

Lòng quê chợt tỉnh buồn tê tái

Thương quá bà con buổi chiến chinh.

 

Người cũ anh em còn mấy mống?

Ai về, ai ở, ai nên danh?

Thương hay An, Luận thành thiên cổ

Còn Giám, Phương, Long, Ấn,Thọ,Đình

Nhớ buổi sáu mươi ( 1960 ) cơm bấn loạn

Vui buồn thấp thỏm đợi thâu canh.

 

Nhớ nhau, xin có lời thăm hỏi

Còn ghét hay thương, chuyện chẳng thành.

Cho ghét, cho thương, tôi nhận cả

Tình đời lên xuống bạc sang canh.

 

Phận em, từ thuở ra đi ấy

Còn chút tàn duyên, gọi để dành.

Chờ gặp chợ đông, trưng bán nốt

Đắt hời, thôi cũng mảnh tâm thành.

Tôi nay cam phận ly hương khách

Thân gửi lời thăm hết mấy anh.

Phố Hội bơ vơ chiều áp Tết

Trông về đỉnh Ấn, nhớ thương đành.

                                    ( Hội An 1965 )

 

  THỰC CẢNH    

 

Trở thành thằng khố rách

Khi tuổi quá sáu mươi

Vợ chồng còn ly cách

Con mỗi đứa một nơi.

 

Ngày ngày theo lũ trẻ

Ra đồng thả vịt ăn

Bạn bè cùng giun dế

Tiếc nuối mộng chim Bằng.

 

Mồ cha kìa một nấm

Hiu hắt xứ Đồng Găng

Lệ buồn nghe còn thấm

Qua thớ đất khô cằn.

 

Lê la trên gò mả

Nhổ từng cộng rau hoang

Dây mơ cùng rễ má

Lẫn trong cỏ úa vàng.

 

Chiều về khu vườn nhỏ

Bới đất trồng cải dền

Rồi thẩn thờ trước ngỏ

Nghe chiều xuống mông mênh.

 

Xóm làng nay đổi khác

Cảnh trí chẳng như xưa

Ôi! Tuổi thơ xa lắc

Nhớ thương mấy cho vừa.

 

Đêm đêm nằm co quắp

Giường hẹp trải chiếu manh

Chăn đơn không đủ đắp

Cho giấc mộng viên thành.

 

Mưa ngoài kia rên rỉ

Gió ngoài kia than dài

Thu về rồi đấy nhỉ

Còn gì cho Ngày Mai?

 

 

Bác tôi : NGUYỄN VĂN XUNG ( 1923 – 1990 )

Giáo sư  Triết học và Thẩm mỹ học, dạy học ở miền Nam trước 1975. Tác phẩm: Nhóm tác giả trong chương trình ( Liên khu 5.1950 ), Thẩm mỹ học ( Lửa thiêng 1972 ), Văn học đại cương ( Tân Việt 1973 ) , Phạm Thái và Sơn Kính Tân Trang ( Khai Trí  1972 ) Cơ cấu Việt ngữ ( 7 cuốn, chưa in )… Làm thơ, bút hiệu Vi Dung. Giỗ ngày 7.7 âm lịch

 
  NÓI VỚI MÌNH  

 

Một giấc kê vàng, mấy chục năm

Ngày thu tơ vướng nợ dâu tằm .

Cúc vờn dậu gió, thu chưa chớm

Mai ngạo cành sương, rét vẫn căm.

Chuyện cũ máu xương than tiếc hăo

Nghĩa xưa hàn mặc nhớ thương thầm

Lạc loài chiếc lá bay theo gió

Còn nhớ nhau chăng? Hăy ghé thăm.

                                    ( 1990, viết trước khi mất )

 

 

 

MẸ !

 
 

Từ về thăm Mẹ năm xưa

Áo cơm níu măi gót thơ quê người.

Sầu dài, ngày tháng khơi vơi

Ấy ai buộc cánh chim trời lao lung

 
 

PHÂN KHÚC SỐ NĂM

 
 

… Này em gái nhỏ

Đôi mắt sầu u

Chiều nào tiếng sáo vi vu

Phân vân dăm cánh phù du lạc loài.

Ai là Ta,  Ta là ai?

Gió lay khóm lá, trăng cài trời xanh.

Chiều nào nắng xuống mong manh

Cho mây viễn xứ lênh đênh quê nhà

Ta là ai,  ai là Ta?

Trăm lần không số cũng là số Không.

Có gì chăng, để đợi mong?

Muôn con sóng lượn, chờ trông lượn nào.

Biển thì sâu, trời thì cao

Cánh chim chấp chới lạc vào Thái Hư

 

 
Bác tôi : NGUYỄN VĂN HÀM (Bút hiệu NGŨ HÀ MIÊN)

Sinh năm 1931, Giáo sư  Triết học và văn học. Tác phẩm đă in: Mười Năm  ( tập thơ, 1963 ), Băo Loạn (truyện dài) .

 
 

                                               TẶNG ĐỀ

                                                                      ( Tặng M. )

Ta gửi tặng người bông hoa quí

Người khóc nhìn trời, tóc xơa mưa

Ta đem hoa thả vào tro bụi

Ta chết, người cười như  thuở xưa.

 

           NGƯỜI

                                 (Tặng Thiền Sư T.Q. 1963)

Vì người ta hái đóa hoa này

Gửi về nước chảy với mây bay

Ta thấy người đi trong gió hút

Mà thương thân thế dáng hoa gầy

 

ĐỜI VẮNG EM RỒI

                               Tặng Nh , 1952

Đời vắng em rồi hết ước mơ

Áo xanh chi nữa uổng mong chờ

Chong đèn đọc lại tờ thư cũ

Chữ múa , t́nh không , tiếc ngẩn ngơ

 

Em nhé sang ngang . Anh ở lại

Chẳng gì cũng một chuyến băng sương

Phụ nhau , đâu một con đò ấy

Thì nói làm chi tiếng đoạn trường

 

Chép sử , tôi chép rằng : Hạng Vương

Một chiều sương ngấp bốn Ô giang

Ngu Cơ khăn gói theo vua Hán

Một giấc chiêm bao một lỡ làng .

 

       CHIỀU THỨ TƯ

                               Tặng Thanh Quang

Nằm trong hạnh phúc mưa rơi

Đố em biết hạt mưa trời về đâu

Về đâu , bóng ngựa đêm thâu

Chân què khập khểnh vó câu hoang tàn.

Đường thì dài , hút thời gian

Đừng buồn số phận , đừng than kiếp người

Này em ! Hăy hé môi cười

Cho tê điếng thịt , cho tươi xuân nồng

Ồ ! Sao em bổng khóc ròng

phải chăng KHOÁI LẠC gốc cùng KHỔ ĐAU

Chúng mình định mệnh vào nhau

Bằng sao Hạnh Phúc bằng bao Ngậm Ngùi

 

Vì đời toàn những ngày vui

Thì trăm năm , cũng thế thôi , có gì

Giếng xưa ngả bóng bờ mi

Hàng tre quá khứ thầm thì nghiệp duyên

Bao giờ trăng rọi cửa thiền

Cha anh đất tóc soi lên kiếp người

Bây giờ tất cả ngược xuôi

Tránh sao cho được cái tôi ngục tù

Nhìn gương , này một sáng thu

Sao anh chỉ thấy phù du một mình .

Trích tuyển Những Khuôn Mặt Thơ Mới

(Hà Nội , 1994)

 

HAI BÊN QUAN TÀI NGƯỜI BẤT TỬ

                                           Tặng Bùi Giáng

Lũ chúng ta

Chính tà bạn lứa

Sống như một niềm trăn trở trước hôm nay

Thằng quê miền Trung , sơi đá ngập đường cày

Thằng sinh xứ Bắc

Buổi vào Nam , xa nhà lất phất hạt mưa bay

Nó không khóc nhưng đỏ hoe tròng mắt

Nhớ Hồ Gươm sương xuống tóc ai dài

Thằng là trai Lục tỉnh

Con nhà lính mà tính nhà quan

Thấy việc bất bằng chẳng thể làm ngơ

Rồi bỏ trường đi vật vờ con gió loạn

Đứa thì làm hảo hán

Mài kiếm đêm trăng múa loạn hư trường

Đứa theo cái nghiệp văn chương

Thức trang giấy trắng , pháp trường mênh mông

Đứa ngây thơ mơ mòng chính trị

Để thấy mình lâm thế bí một đời

Bạn tôi say hát : à ơi !

Bạn thù , thù bạn , một thời nhiễu nhương

Ngĩa trang , mai nó lên đường

Còn ta ở lại , mười phương cát mù

À ơi như tiếng mẹ ru

Dỗ nhau , một giấc ngàn thu ngủ vùi .

 

        KHÔNG CÓ EM

Không có Em cuộc sống sẽ khô cằn

Nắng úa hết những vòm trời dĩ văng

Chiều sẽ xuống tuôn bóng đêm linh loạn

Khiến con người kinh hoảng trước hư vô

 

Không có Em , anh sẽ đến bên mồ

Nghe tiếng dế gọi thời gian tuyệt vọng

Anh sẽ thấy linh hồn anh bé bỏng

Đang lênh đênh vô vọng cơi trùng khơi

 

Không có Em khi lá rụng hoa rơi

Thì anh biết lấy gì mà thương tiếc

Cuộc đời đó trong mắt em xanh biếc

Gió mùa xuân vi vút tiếng thông reo

Không có Em vũ trụ phải tiêu điều

Câm hết sinh ca , tắt rồi ánh sáng

Bỗng Em đến , vườn Xuân tràn ngập nắng

Mặt Trăng , Mặt Trời với những vì sao

Mở tiệc quần anh vui ngày hội ngộ .

Từ đó hết tháng năm buồn ṿ vơ

Đôi lứa chúng ta đi giữa vô cùng

Trong gió cát mà chẳng hề đơn độc

                                             1963

(Trích "Tuyển Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới - Khai Trí 2001)

 

             MƯỜI NĂM

 

Mười năm ấy , bao lần sông đổi nước

Băi dâu làng quan mấy lượt cát bồi

Đêm trời đen , bao sao lạ đổi ngôi

Màu tím hiện về chập chờn giấc ngủ . . .

 

Dạo ấy nàng trăng còn là thiếu nữ

Biếc xiêm y , đôi cánh trắng hiền từ

Và cánh hoa đèn chưa biết ưu tư

 

Mười năm đó , đá tan , rừng biển động

Lửa loạn ly đốt vèo bao giấc mộng

Mười năm qua , râu đă mọc trên cằm

Thương tích thời gian đă hằn trên trán

Mấy cuộc tình duyên : khóc , thương , hờn , giận

 

Bút mực nào kể hết chuyện con tim

Chân lư sơn son , mỏi bước đi tìm

Đường khúc khuỷnh lại trách

                                    thân mình lận đận

Cô hàng xóm nhỏ rơ ràng son phấn

Lên xe hoa một sáng rực pháo hồng

Rồi qua một đêm súng nổ mịt mùng

Nàng quấn khamắt dầm lệ khổ

Tay dắt con , áo phất phơ chiều gió

Nhân loại ơi ! Bao giờ hết chia lìa ?

 

Tôi chong đèn thức trắng những đêm khuya

Nghe tiếng dế khóc bờ hoang băi rậm

Trang sách giở , với tháng ngày ngùi ngậm

Tôi tiễn bao người đi tới nghĩa trang

Mới hay rằng lòng đất rộng thênh thang .

                                                    1955

(Đề từ Thi tập Mười Năm , Sài Gòn 1963)

 

 
     
Ba tôi : NGUYỄN VĂN HỘNG (Bút hiệu HỒNG HOANG)

Sinh năm 1933. Cử nhân Triết học, theo nghề dạy học lâu năm và là người yêu thơ

 
 

LỜI MÂY NHỚ NÚI

Họa đáp bài “Nửa chiều đọc thơ” của Vũ Hồ

I.

Thư đọc bao lần rượu thấy cay

Ngậm ngùi trang giấy viết cho ai

Trọn đời ta chỉ làm mây trắng

Quê cũ ai nhìn mây trắng bay

 

Tuế nguyệt thêm sâu chuốc chén buồn

“ Sao khuya” (1) càng lạnh nỗi cô đơn

Nghẹn ngào thương kẻ quên chung rượu

Thơ gói sầu từ tạ cố nhân

 

Chiếc lá vàng đi lạc xứ người

Hẹn về ga cuối bến dài lâu

“ Đất trời quán lữ” thân tro bụi (2)

Là hạt  mưa sa giữa biển đời

 

Ao vải chân trần ra đất khách

Năm mươi năm ấy cũng bằng không

Xót người phố hẹp buồn heo hút

Sông Vệ chiều trôi dải ráng hồng

 

Thuở ấy hồng hoang đời thiếu rượu

Uống cạn nghìn thu chửa thấy sau

Trà giang ơi buồn căng vỗ sóng

Cho ta chén cúc bớt  vơi đầy

 

Nắng nửa chiều hay gió sớm mai

Ngươi đă đăng trình về chốn xưa?

Nhớ các ngươi Lời Mây Nhớ Núi

Thương bạn hằng đêm đợi bóng đ̣

 

Chẳng phải người chẳng phải riêng tôi

Sương mù dĩ văng khóc tương tư

Mênh mông tám cơi hồn mây cỏ

Vũ trụ cùng Ta (3) tự bấy giờ  

II.

Nghìn dặm quan san một chút lòng

Biết ai thương nhớ mà đợi mong

Người xa có thấy phương trời cũ

Mây trắng bay về đậu cuối sông?

 

Xin đợi chờ nhau khắp nẻo về

Bài thơi chiều ấy buồn tái tê (4)

Mỗi câu cạn một bình men quí

Khua động niềm xưa, tuổi hẹn thề.

 

Cuỡi khúc cuồng ca ta đến đây

Thiên thu góp lại đáy ly này

Trần gian nửa giấc kê chưa chín

Đâu hận vàng thau lỡ sắc tài

 

Ta ra quán trọ, trăng thề tủi

Đừng khóc giang hồ chuyện trắng tay

“ Đường đi không tới” (5) bờ kim cổ

sá chi thân thế kiếp hoa gầy(6)

 

“ Ta sống chỉ là lữ khách thôi

Chết về rũ áo bỏ xa người”

Cổ nhân đốt đuốc vui chưa trọn

Cơm áo nên đành bỏ cuộc chơi?

 

Nhìn trông bốn phía đâu bè bạn

Dạt cánh hoa bèo nước chảy xuôi

Quan hà bến đợi câu tương ngộ

Nhặt phiếm dao cầm ta nhớ ngươi

 

Cát bụi còn đau cơn băo lốc

Một phiến băng tâm vỡ tiếng cười

Trăm năm đă sánh trong hồ rượu

Vạn chén ngâm cuồng giọt lệ rơi!

                                                                                    1981

 
 
 

TRÊN NÚI LONG ĐẦU

                                Nghe tin  anh

( Long Đầu là một thắng cảnh của Quảng Ngăi , ngày 13.11.1974 tác giả đi dạy học về

 ngang đó, nghe tin anh ruột qua đời, khóc thành bài thơ này .)

 

Chiều nay nghe tin anh trên đồi

Lặng nhìn Trường Sơn  mờ… xa xôi

Nghẹn ngào trong tim xót  xa đường dài

Mây chen chân trời, mù tương lai

 

Ngày đi anh nói: “ Vì tình thương”

Lá rụng ngập đầy trên quê hương

Bà con lối xóm nghèo xơ xác

Cỏ may um mộ bia Đồng Găng

 

Kìa bóng anh như bóng ai qua cầu

Giọt hồng trong tim rưng rức đau

Tiễn Anh, trang sách nhòe hoa bướm

Ấu thơ ơi ! Đư anh về đâu ?

 

Ngày tiễn  anh đi, em nhìn lặng lẽ

Cội thung còn thơm mùi rong rêu

Trang thư  dày thêm thành nhật kư

Thuở bào thai, hai tiếng thương yêu

 

Trên núi Long Đầu  được tin Anh

Bàng hoàng trời cao, sao mông mênh

Thiên Ấn ngàn năm con chim Bằng

Trà giang mịt mờ mưa giăng giăng.

 

Từ thuở đất trời chia Sâm Thương

Mắt anh đong đầy sóng trùng dương

Áo xanh hẹn đẹp mùa quan tái

Một thân lao lụy đời gió sương

 

Chiều nghe tin Anh, buồn không khóc

Nước mắt khô rồi chẳng hiểu tại sao

Con gió thu về luồn qua sống áo

Hoa bướm ngày xưa nhòe trong chiêm bao .

 
     
Anh họ : NGUYỄN TƯ DUY

Sinh năm 1957 tại Tư Nghĩa, con Bác Sáu Nguyễn  Diễn, kỹ sư  cơ khí, hiện ở Biên Hòa

 

                                    THƯ CHO MẸ

Chiều nay dưới phố rộn ràng

Nằm đây nhớ mẹ lệ tràn câu thơ

Ấm êm là thuở c̣n thơ

Mẹ ru nghe giọng ngọt lời ca dao

 

Giờ còn mấy đứa xanh xao

Đứa vừa bỏ mẹ đi vào hư vô

Hoa khôi cũng kiếp thân cò

Mấy năm lặn lội chờ đò Kim Sơn

 

Cha về tuởng trời sáng hơn

Sao mây còn đọng oán hờn trút mưa

Đời cha khó nhọc từng mùa

Khóc con đôi bận lệ vừa biển Đông

 

Con đi trong chốn bụi hồng

Áo cơm cũng đủ đèo bòng tấm thân

Người ta khuya sớm ân cần

Con nay hiếu nghĩa chỉ vần thơ suông.

                                Giao thừa 1981

 

        ĐÊM TRĂNG 08/1985

 

Đêm khuya là tiếng nỗi buồn

Mình tưởng mình là nhạc sĩ

Viết bài ca gửi gió nguồn

Một nốt lặng dài vô tận

 

Huyền ảo là màu ánh trăng

Mình mơ mình là hơa sĩ

Vẽ lên cái đẹp vĩnh hằng

Lung linh một nét lung linh

 

Cô đơn là không có em

Tự nhiên mình thành thi sĩ

Dệt một vần điệu êm đềm

Để vơi nỗi nhớ cuồng si

 

Chung tình cũng chỉ có trăng

Theo ta khắp nẻo đường dài

Ấp ôm tháng ngày quạnh vắng.

Mất gì không mất được trăng.

 

 
     

Trang chính       Phần mềm PC      Phần mềm Mobile       Kế toán Thuế      Download       Dịch vụ     Liên lạc